e)
Tác giả và
hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Kokin-shuu
(Cổ kim tập) phần thơ lữ hành,
bài số 406.
Tác Giả: Abe
no Nakamaro (An Bồi, Trọng Lữ, 701-770)
Bài thơ này của học
tăng Abe no Nakamaro, tức là tăng Triều
Hành, sang nhà Đường học
Phật, tương truyền có lưu lạc
đến Việt Nam, được triều
đình Huyền Tông phong chức thứ
sử Giao Châu. Ông nhìn vầng
trăng trên trời nước người
nhớ về vầng trăng quê hương
núi Mikasa vùng Kasuga (gần Nara) nước
Nhật trước ngày lên đường
về nước.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Tâm tình nhớ về quê
hương trong khi du học ở nước
người.
Núi Mikasa là một ngọn
núi hay đúng hơn là một
quả đồi hình như cái nón
lá (kasa), cao 283m, nằm phía đông
đền Kasuga ở Nara, tượng trưng
cho hình ảnh quê hương của
tác giả. Đền này cũng là
nơi sứ bộ và du học sinh đến
khấn nguyện cầu xin đi đường
bình yên. Tương truyền, Nakamaro
làm bài thơ này khi từ Trung
Quốc bước xuống thuyền ở
Minh Châu để về nước và
được bạn bè đưa tiễn.
Hai chữ kamo (có phải chăng) ở
cuối câu thơ nói lên sự
hoài nghi nhưng cũng là niềm hy
vọng của ông. Thời ấy đường
biển nhiều sóng gió, tai nạn,
số người chết rất nhiều nên
ta có thể hiểu tâm tình này.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Trường không vọng
nguyệt. 長 空 望 月
Liêu khoát[1]
trường thiên ngọc kính
thăng, 遼 闊 長 天 玉 鏡 昇
Ngưỡng thủ dao vọng
động hương tình. 仰 首 遥 望 動 郷 情
Do thị đương niên
Xuân Nhật nguyệt, 犹 是 当 年 春 日 月
Tằng tại Tam Lạp Sơn
đính minh. 曾 在 三 笠 山 頂 明
[1]
Liêu khoát: mênh mông, bát
ngát.
|
|
Anh dịch:
On every side the vaulted sky
I view: now will the moon have peered,
I trow, above Mikasa high
In Kasuga’s far-off land upreared.
(Dickins)
When I look abroad
O'er the wide-stretched "Plain of Heaven,"
Is the moon the same
That on Mount Mikasa rose,
In the land of Kasuga?
(Mac Cauley)
|
|
Nakamaro người vùng Yamato,
mới 16 tuổi (716) đã du học ở
Trường An, rồi làm quan bên đó,
kết bạn với Vương Duy, Lý
Bạch, đến năm 753 mới dược
theo sứ bộ Nhật Bản để về
nước. Nhân đấy, Vương Duy
có tặng bài thơ ngũ ngôn
“Tống bí thư Triều giám
hoàn Nhật Bản quốc” với
tình ý hết sức nồng đượm.
Chẳng ngờ thuyền bị đắm và
ông trôi dạt đến Giao Châu.
Mọi người ngỡ ông chết đuối,
do đó, Lý Bạch mới làm
thơ than khóc như sau:
Khốc Triều Khanh
Hành. 哭 晁 卿 衡
Nhật Bản Triều khanh từ
đế đô, 日 本 晁 卿 辞 帝 都
Chinh phàm nhất phiến
nhiễu Bồng Hồ. 征 帆 一片 繞 蓬 湖
Minh nguyệt bất qui trầm
bích hải, 明
月 不 帰 沈 璧 海
Bạch vân sầu sát
mãn Thương Ngô. 白 雲 愁 殺 満 蒼
梧
Khóc bạn Triều Hành.
Bạn Triều nước Nhật
giã kinh đô, Buồm dong một lá
trẩy Bồng Hồ. Trăng sáng không
về, chìm bể biếc, Một màu
mây trắng dãi Thương Ngô.
Sau
đó, Abe no Nakamaro được Đường
Túc Tông phong làm Trấn Tây Đô
Hộ ở Giao Châu nhưng có lẽ
đây chỉ là một tước
hiệu chứ ông không trực tiếp
cai trị. Ông mất ở Trung Quốc,
không hề thấy lại quê hương.
Bài thơ này đã được
Ki no Tsurayuki trích dẫn trong tác phẩm
Tosa Nikki nên người đời mới
biết là thơ của ông.
|